-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
Mây tre đan phú vinh - tinh hoa nghệ thuật dân gian
17/09/2020
Việt Nam được coi là một trong ba quốc gia xuất khẩu mây tre đan lớn nhất thế giới, với tổng kim ngạch 250 triệu USD năm 2008, chỉ đứng sau Trung Quốc, Indonesia. Trong phát triển làng nghề truyền thống và ngành thủ công mỹ nghệ của Việt Nam, lĩnh vực sản xuất mây, tre đan chiếm một vị trí rất quan trọng. Nguyên liệu chính để làm hàng mây tre đan là tre, nứa, mây, song, guột... được khai thác chủ yếu từ các rừng tự nhiên và rừng trồng tập trung. Trong các làng nghề mây tre đan của Hà Nội hiện nay, tiêu biểu nhất là làng nghề mây tre đan Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ).
Huyện Chương Mỹ xưa là huyện Chương Đức, phủ ứng Thiên, trấn Sơn Nam. Năm Gia Long 13 (1814) đổi là phủ Ứng Hòa. Đời Đồng Khánh chia làm hai huyện Yên Đức và Chương Mỹ. Chương Mỹ là cái nôi của làng nghề mây, tre, giang đan của Hà Nội với 174 làng nghề, chủ yếu là mây, tre đan. Các làng nghề mây, tre đan có rất nhiều sản phẩm hàng hóa độc đáo, đặc trưng; có sức lôi cuốn khách du lịch đến tham quan. Các làng nghề mây, tre đan ở Chương Mỹ được coi là một trong những cụm làng nghề lớn nhất tỉnh. Thu nhập bình quân của các làng nghề khoảng gần 400 năm. Xã Phú Nghĩa nằm ở phía Tây huyện Chương Mỹ, cách trung tâm huyện lỵ 5 km và cách nội thành Hà Nội 27 km. Nằm dọc theo trục Quốc lộ 6A nối liền thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi Tây Bắc; Xã có 7/7 làng được UBND tỉnh Hà Tây (nay là Thành phố Hà Nội) công nhận làng nghề, trong đó Phú Vinh là làng nghề truyền thống. Xã có 7 thôn, 10 đơn vị hành chính thôn, xóm. Cả xã 41,1 %, hộ nghèo chỉ còn 13,9% .
Hàng mây, tre đan của Phú Vinh có tới hàng trăm mẫu mã, có loại đòi hỏi kỹ thuật cao như tranh chân dung, phong cảnh, hoành phi, câu đối, chim thú... Nhìn những mặt hàng này tưởng như được thêu bằng nan. Sản phẩm của xã đã được xuất khẩu sang 50 nước trên thế giới. Năm 2001, xã Phú Nghĩa đã được chọn là điểm du lịch làng nghề Phú Nghĩa theo tuor du lịch của các điểm trên địa bàn. Năm 2004, Sở Công nghiệp Hà Tây (nay là Sở Công thương Hà Nội) đã chọn Phú Vinh để khảo sát, xây dựng dự án điểm về phát triển làng nghề kết hợp du lịch. Đến nay quy hoạch làng nghề truyền thống kết hợp với du lịch đã được phê duyệt.
Ngoài mây, tre, người ta đã tìm tòi sáng tạo phát triển thêm cả nguyên liệu giang, nứa, bèo bồng, sắt, thép, gốm sứ. . . để đan, dệt thành sản phẩm ngày một hoàn thiện, sắc nét hơn. Từ đó thôn Phú Vinh đã hình thành làng nghề mây, tre đan nổi tiếng, sau lan dần ra cả xã Phú Nghĩa. Theo thời gian, nghề dần phát triển không chỉ ở làng Phú Vinh, mà còn vươn xa tới hơn hai mươi địa phương khác nhau, trải dọc theo đất nước. Có những sản phẩm mây đan được làm từ làng nghề Phú Vinh, nay vẫn đang được người đời lưu giữ như một tác phẩm nghệ thuật cổ quý hiếm. Hiện tại, Bảo tàng cung đình Huế đang lưu giữ một tác phẩm thư pháp chữ Hán đan bằng mây của các cố nghệ nhân thôn Phú Vinh vào năm 1712. Hay một số nhà chức vị giàu có ở Cộng hoà Chi Lê và một số nơi khác, vẫn đang cất giữ những bức hoành phi câu đối được đan dệt bằng mây từ những năm 1840 . Theo tài liệu nghiên cứu của Câu lạc bộ nghệ nhân Phú Vinh, vào thời vua Thành Thái, làng nghề truyền thống Phú Vinh có 9 cụ nghệ nhân đã được nhà vua phong sắc.
Thời nào cũng vậy, lớp nghệ nhân cao tuổi, tài hoa, yêu nghề, bám trụ với nghề, đã truyền nghề lại cho con cháu họ, đưa thương hiệu nghề đan mây Phú Vinh phát triển lên tầm cao mới. Câu lạc bộ Nghệ nhân Phú Vinh được thành lập năm 2007, tập hợp được 1 9 nghệ nhân và thợ giỏi tham gia, trong đó, người cao niên nhất 85 tuổi và trẻ nhất là 25 tuổi. Câu lạc bộ này với mục đích chính là tập hợp những nghệ nhân, thợ giỏi đoàn kết sát cánh, cùng phát huy những tài năng nghệ thuật của mình để giữ gìn, bảo vệ nghề truyền thống, sáng tạo ra nhiều mẫu mã đẹp, nhiều tác phẩm mới, đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới trong hội nhập hiện nay. Đã là thợ làng nghề Phú Vinh, không ai là không biết đến tên tuổi của cố nghệ nhân Nguyễn Văn Khiếu (1905 - l983). Cụ là người làng Phú Vinh, có đôi bàn tay khéo léo đến lạ kỳ. Cụ là nghệ nhân đầu tiên đan thành công ảnh chân dung Bác Hồ bằng chất liệu dây mây truyền thống. Khi còn sống, cụ Khiếu vẫn từng nói: "Nghề đan mây - một nghề cho ra nghề quả là khó. Theo cụ, nghề mây cũng như bao nghề thủ công mỹ nghệ khác, chỉ được gọi là thành công khi làm được ra những sản phẩm mỹ nghệ có hồn. Khi ta đang cầm sợi mây đan, ta chợt thấy chim vỗ cánh bay, càng ngắm càng thấy chim bay cao dần. Tết hoa cũng vậy làm sao để người ngắm mà thấy hoa nở tươi hơn, duyên dáng hơn. Dùng sợi mây, nan tre, để làm được việc đã khó, nhưng còn khó hơn nhiều khi dùng nó để mô tả phong cách, dáng điệu một chân dung con người.
Nếu như các hoạ sỹ vẽ tranh được dùng tới 7 màu cơ bản để thể hiện tác phẩm, thì với nghệ nhân đan mây, chỉ có thể dùng 2 màu đen, trắng. Màu đen là màu của cắt giang được nhuộm từ nước quả bàng, còn màu trắng là màu trắng ngà tự nhiên của dây mây. Với 2 màu ấy, nghệ nhân phải nghiên cứu, tính toán, đan làm sao cho toát lên cái hồn của tác phẩm. Tả phong cảnh có thể chấp nhận, nếu có sai sót kỹ thuật, còn tả chân dung một con người phải làm sao vừa đẹp vừa giống, là điều cực khó. Nếu đẹp mà không giống thì cũng bỏ đi, nếu giống mà lại không đẹp thì cũng vô ích.
Nhắc lại chuyện về cố nghệ nhân Khiếu, cụ đã thành công trong nghề đan mây tả phong cảnh và tả chân dung người, đến đời con trai là nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh, năm nay 45
tuổi, đã rất thành công trong lĩnh vực nội thất mây tre đan, ông Tĩnh vẫn đang tiếp nối nghề truyền thống cha ông, hàng ngày lưu giữ những tinh nghệ, trải nghiệm tỷ mỹ của cha mình như một báu vật. Con trai ông Tĩnh là Nguyễn Văn Quang 22 tuổi, nhập ngũ năm 2004, những tưởng, Quang sẽ xa rời cái nghiệp nhọc nhằn cửa ông cha mình, nhưng không, 3 năm trong quân ngũ, chưa khi nào Quang quên cái nghề đan mây, hình như nó đã ngấm sâu vào máu thịt Quang lúc nào không hay. Đầu năm 2007, Quang rời quân ngũ về nối nghiệp cha ông. Tác phẩm đầu tay của mình, một cái lọ lục bình cao 4, 1 m, được sách kỷ lục Việt Nam công nhận trong Hội hoa 2009, đã hoàn thành, trên mặt thành lục bình ấy được tả 4 điểm nhấn gồm Chùa Một Cột, Khuê Văn Các, Tháp Rùa Hà Nội và Rồng thời Lý đang bay lên. Đây là công trình do Quang thiết kế, anh trai Quang là Nguyễn văn Bình làm cốt rồi cả nhà khởi công đan từ ngày 10/10/2007 .
Với gia đình nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh, công trình này mang giá trị tinh thần lớn lao không thể quy đổi thành tiền. Đây là tác phẩm đầu tay của cháu nội cố nghệ nhân I (dâng tặng Đại Lễ 1000 năm Thăng Long). Tiếp nối lớp nghệ nhân lão làng, Anh Hoàng Văn Hạnh và chị Nguyễn Thị Hơn là những người đầu tiên có sáng kiến kết hợp tinh hoa của hai làng nghề: Gốm Bát Tràng và mây tre đan Phú Vinh, tạo ra một loại sản phẩm mỹ nghệ mới - gốm sứ quấn mây. Ý tưởng kết hợp sợi mây, sợi giang với gốm sứ đã được anh Hạnh ấp ủ từ 20 năm nay. Đó là những năm 90 của thế kỷ trước, khi nghề mây tre đan ở Phú Vinh bị "tắc" đầu ra, người dân đổ xô đi làm hàng chợ như rổ, rá.. . để kiếm sống. Xót xa và trăn trở với việc giữ nghề, anh Hạnh đã vào Đồng Nai, TP HCM tìm kiếm thị trường. Tại đây, anh đã nảy ra ý định kết hợp cói với sứ Bình Dương và được khách nước ngoài rất thích, đặc biệt là du khách Pháp. Sau 4 năm bươn chải nơi đất khách, anh trở ra Bắc và tìm thấy ở gốm Bát Tràng có nhiều tông màu rất hợp với màu trắng ngà và màu sẫm của mây Phú Vinh, tạo nên những mảng sáng tối cho sản phẩm…
Tính đến nay, các lớp nghệ nhân ở làng nghề Phú Vinh đã nhân cấy nghề cho tất cả 1 2 tỉnh, thành phố trên cả nước, học và duy trì nghề mây, tre đan. Hiện nay, nhiều thế hệ nghệ nhân như: Nguyễn Văn Khiếu Nguyễn Văn Kinh, Nguyễn Văn Kiệu, Hoàng Văn Khu . . . tuy họ đã ra đi, nhưng sự nổi tiếng với đôi bàn tay vàng được ghi phẩm đạt giải quốc tế vẫn còn lưu danh tên tuổi các cụ. Nói đến truyền nghề ra nước ngoài, năm 1982, Bộ Ngoại giao Cu Ba cũng đã từng đề nghị Chính phủ Việt Nam cho phép nghệ nhân Nguyễn Văn Trung, người làng Phú Vinh sang trực tiếp giúp đỡ nhân dân Cu Ba học nghề mây, tre đan của Việt Nam. Trong 4 năm nhận nhiệm vụ ( 1982 - 1987), ông Trung đã xây dựng và đào tạo được một xưởng nghề cho nước bạn, giải quyết việc làm cho 300 công nhân. Thông tin từ các bạn Cu Ba cho hay, xưởng nghề do ông tạo dựng, nay đã đã phát triển thêm 3.000 lao động. Khóm tre ông trồng trên nước bạn, từ ngày ấy, nay đã phát triển rộng 3 mét. Người dân Cu Ba bây giờ gọi xưởng nghề đó là xưởng nghề Trung Cu Ba. Và bây giờ, người làng nghề Phú Vinh cũng gọi ông là nghệ nhân Trung Cu Ba. Cái tên Trung Cu Ba như một món quà nặng nghĩa của người dân Cu Ba dành tặng riêng cho ông vậy.
Muốn có một tác phẩm như ý, trước tiên người thợ làng Phú Vinh phải hiểu rõ thứ nguyên liệu mà mình định làm. Ví dụ như cây tre, nứa, vầu, trúc…và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ lúa. Cây tre là loại cây mọc thẳng, có độ cứng cao, khô thì giòn, đặc biệt tre có chứa chất đường nên dễ bị mọt ăn nên khi sử dụng vào việc đan phải xử lý chống mọt. Để sản xuất sản phẩm, phải trải qua nhiều bước, từ khâu chọn mua, xử lý nguyên liệu, đến chế tác sản phẩm. Nguyên liệu mua về được phơi tái. Sau đó cho vào bể ngâm hoá chất chống mối mọt, thời gian ngâm 10 ngày để cho tre ngấm đều hoá chất. Sau đó vớt tre ra để nghiến mấu, cạo vỏ dùng giấy giáp đánh bóng và phơi tre khô. Công đoạn tiếp theo là đưa tre vào lò, dùng rơm, rạ hoặc lá tre để hun lấy mầu, sản phẩm có mầu nâu tây hay nâu đen, là do thị hiếu của khách hàng yêu cầu. Sau khi hun lấy mầu, đưa tre ra khỏi lò để cho nguội và đưa lên uốn thẳng. Bước vào công đoạn đóng đồ, những người thợ cả chọn nguyên vật liệu để cắt ra các mặt hàng sao cho phù hợp những sản phẩm được ra đời. Màu sắc của sản phẩm có nhiều loại, có thể là từ màu nguyên thuỷ của mây hun hay được hỗ trợ qua cách pha chế sơn Pu.
Mây là tên gọi chung cho khoảng 600 loài cây thuộc họ cau, phân bố tự nhiên thuộc các khu vực nhiệt đới của châu Á, châu Úc, châu Phi. Mây là lâm sản ngoài gỗ được sử dụng làm nguyên liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, đồ dùng trong gia đình (nội thất) như bàn, ghế hay giỏ đựng Mây là loại cây leo, thân và lá có gai, phát triển từng đốt ưa sống ở nơi ẩm. Trong điều kiện gieo trồng, để có được những sản phẩm cho năng suất cao, chất lượng tốt, người ta sử dụng giống mây nếp. Đặc điểm giống mây này là thưa đốt, tròn đều, vỏ có mầu trắng ngà, cho năng suất cao, dễ thu hoạch, chịu được mọi điều kiện thời tiết, cây có khả năng kháng chịu sâu bệnh cao. Cây mây lớn rất chậm, mỗi năm nó chỉ dài thêm ra được 1 mét, khi dài tới 5 mét thì phải thu hoạch. Cây mây non hoặc già quá chất lượng đều kém. Muốn cây mây thẳng, khi trồng phải đặt rễ mây cho thẳng. Rễ dài đến đâu cũng phải đào hố trồng sâu đến đấy để đặt rễ cho thẳng. Kinh nghiệm cho thấy, khi đặt rễ thẳng như thế, dù cây mây có leo, có cuốn xoắn vào cây khác thì khi chẻ sợi mây cũng cứ thẳng, không bị vặn. Kỹ thuật chế biến mây bao gồm hai công đoạn: phơi sấy và chẻ mây. Khi sấy, nhiều khói quá hay ít khói quá mây cũng bị đỏ. Khi phơi, gặp mưa thì sợi mây mất vẻ đẹp, mà nắng thì sợi mây mất vẻ tươi. Sợi mây chưa khô tới thì nước da bị úa, mà khô kiệt quá thì nước da mất vẻ óng mềm. Do đó, phơi sấy mây đòi hỏi phải đúng kỹ thuật.
Người làm các công việc này không thể sao nhãng mà phải liên tục săn sóc, theo dõi như người chăn tằm vậy. Lấy mấu là công đoạn đầu tiên của 1 chế biến mây. Cây lá mây dù dài hay môi đoạn 3m, năn cho đoạn mây thẳng rồi mới lấy mấu. Chẻ mây là công việc công phu, đòi hỏi tay nghề khá cao. Cây mây thường có các đốt không đều nhau, bởi thế, khi chẻ cần chú ý điều khiển thật khéo sao cho các phần to và nhỏ phải đều nhau.Yêu cầu chủ yếu của việc chẻ mây là các sợi mỗi loại phải thật đều. Loại sợi to để đan cạp các sản phẩm thường. Loại sợi nhỏ dùng để làm những loại hàng quý, hay để tạo các loại hoa cầu kỳ. . . Kỹ thuật chẻ lẻ khi làm nan sợi tre, mây của ta chính là một sáng tạo quý báu. Tùy thanh tre, cây mây to, nhỏ mà quyết định chẻ chẵn hay chẻ lẻ. Để tạo một cỡ sợi mây, nếu chẻ cây mây nhỏ làm tư, làm sáu thì chẻ cây to hơn làm bảy hoặc chín sợi. Chất lượng và mỹ thuật sợi mây là một trong hai yếu tố quyết định giá trị của sản phẩm mây đan.
Người Phú Vinh vốn có tay nghề rất cao. Họ hiểu sâu sắc cây mây, thứ vật tư quan trọng nhất của nghề mây, thuộc nết thuộc tính từng cây, từng sợi mây. Sản phẩm mây được làm ra ở đây đã đạt đến đỉnh cao nhất trong nghệ thuật đan mây hiện nay của Việt Nam. Thành công này trước hết thuộc về công lao các nghệ nhân. Ngày nay, các khâu cắt tiện, pha chẻ và chuốt nan tre, nứa, giang, song, mây, guột . . . đã từng bước được cơ giới hoá, nhưng mọi sản phẩm mây tre đan cao cấp đều phải thao tác thủ công, nên nghề đan cũng có khuôn mực của nó, ấy là phương pháp và kỹ thuật đan, cài. Dù là thợ hay nghệ nhân, không ai có thể vượt ra ngoài khuôn mực ấy. Chẳng hạn, khi đan các loại dần, sàng, thúng, nia, lồng bàn…, đã đan long mốt là chỉ được bắt nan long mốt, nếu đan long đôi chỉ được bắt đều nan long đôi. Đan sai long là lỗi ngay. Trong nghề đan mây cũng thế, khi đan chân dung đã bắt năm thì phải đè năm, bắt sáu hoặc 4, đều lỗi. Chỉ có bắt năm đè năm và đan làm sao cho giống với chân dung từng người.
Cụ Khiếu đã từng "giải mã" được "bí mật" kỹ thuật này trong quá trình hành nghề. Khi còn sống, cụ mong muốn nghề mây đan ở Phú Vinh sẽ được phát triển mãi, ngày một cao hơn, hoàn thiện hơn. Kỹ thuật thì có vẻ đơn giản thế, nhưng phải khéo léo đến cỡ nào mới cho ra được những tác phẩm tuyệt mỹ đến đỉnh cao của nghệ thuật. Phú Vinh là quê hương của mây đan với những sản phẩm mỹ nghệ bằng mây đạt tới tỉnh cao nghệ thuật tạo hình dân gian của Việt Nam. Người Phú Vinh cha truyền con nối, đến nay đã sáng tạo được hàng trăm mẫu hàng, xuất khẩu là chủ yếu gồm đủ loại: địa mây, lẵng mây, làn mây, chậu mây, bát mây. Không thể phủ nhận, nghề mây tre đan đã giải quyết công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động nông thôn, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người lao động. Hiện nay, sản phẩm mây, tre, giang đan của Phú Vinh đã chen chân vào được những thị trường khó tính như: Nhật Bản, Mỹ, Hà Lan, Đức, Tây Ban Nha…Mây tre đan cũng đã trở thành một hàng hoá có trong danh mục xuất khẩu sang thị trường các nước. Thị trường xuất khẩu mây tre đan ngày càng mở rộng và giá trị kim ngạch thu được ngày càng nhiều, được xếp vào nhóm các hàng hoá xuất khẩu quan trọng của nước ta hiện nay. Nhưng để mây tre đan trở thành hàng hoá thương mại, các làng nghề cần có nhà tổ chức sản xuất, các doanh nghiệp xuất khẩu có quy mô lớn, trọng thẩm mỹ, biết khám phá thị hiếu, thị trường. Phương thức sản xuất của làng nghề Phú Vinh song song tồn tại hai cách: Hoặc là lấy mẫu ở các cơ sở thu gom, rồi tự mua nguyên liệu, tiến hành chế tạo, gia công sản phẩm, sau khi được một số lượng nhất định thì mang đi bán. Hoặc là làm trực tiếp tại nhà các hộ kinh doanh theo kiểu làm công ăn lương.
Hiện nay trên địa bàn xã Phú Nghĩa đã hình thành 1 6 doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất và kinh doanh các mặt hàng mây tre đan xuất khẩu, trong đó có 9 doanh nghiệp kinh doanh tập trung tại Khu công nghiệp Phú Nghĩa đã được quy hoạch. Số còn lại là những doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất nhỏ nằm trong các hộ dân. Để đưa những tác phẩm mây tre đan nổi tiếng của Phú Vinh đến với người tiêu dùng trên khắp các châu lục, rất cần sự đóng góp vô cùng quan trọng của các doanh nghiệp này. Trong số các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu mây tre đan mạnh nhất của Phú Vinh, phải kể đến Công ty TNHH Đoàn Kết 1. Được hình thành và phát triển trong cái nôi làng nghề của xã Phú Vinh, huyện Chương Mỹ, từ mô hình ban đầu là hộ sản xuất gia đình, tổ sản xuất cá thể, qua từng bước phát triển, đến nay, Công ty TNHH XNK Đoàn Kết 1 đã trở thành một trong những doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu mây tre đan, thủ công mỹ nghệ, với 3 cơ sở sản xuất có tổng diện tích gần 20.000 m2 nhà xưởng, thu hút gần 200 lao động thường xuyên trực tiếp tại các cơ sở của Công ty và hàng trăm lao động thời vụ tại các cơ sở vệ tinh, các hộ gia đình, góp phần cải thiện thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho bà con ở các khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thu nhập bình quân của CBCNV trong Công ty là 1 ,8 triệu đồng/người/tháng. Sản phẩm của Công ty cùng với thương hiệu Đoàn kết 1 đã có mặt trên thị trường nhiều nước, với nhiều chủng loại đa dạng, đẹp mắt, mẫu mã phong phú sinh động, được khách hàng ưa chuộng.
Bài toán đang cần lời giải hiện nay của làng nghề Phú Vinh nói riêng và các làng nghề nói chung là việc xây dựng nguồn nguyên liệu ổn định; liên kết trong các khâu tạo nên sản phẩm, từ đào tạo nguồn nhân lực, thiết kế, sản xuất cho đến xuất khẩu. Nhà nước cũng cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mây tre đan tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, ngân hàng, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường, xúc tiến thương mại tại các thị trường trọng điểm; hỗ trợ tài chính, thiết bị, các thông tin liên quan đến thị trường, sản phẩm mây tre, thủ công mỹ nghệ trên thế giới . . . Tạo sức mạnh liên kết giữa 3 nhà: Nhà nước - Nhà Doanh nghiệp - Nhà Nông, để đưa vị thế xuất khẩu mây, tre đan Việt Nam lên một tầm cao mới. Góp phần gìn giữ tôn vinh những giá trị truyền thống của làng nghề, tạo việc làm cho phần lớn những người nông dân làm nông nghiệp ở nông thôn. Đó cũng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta đang quan tâm giải quyết vấn đề Tam nông.
Thanh Tùng
Bình luận (1)
1 bình luận
vignifall
27/03/2022